SỨC KHỎE ĐẦU TUẦN.
Mời các bạn xem vài chuyên đề về sức khỏe
Đây không phải là trường hợp cá biệt. Hiện nay, tại các cửa hàng làm tóc, các thợ đều ra sức tìm cách thuyết phục "thượng đế" trẻ nhuộm tóc theo các "model" được in sẵn trong catalogue, với đủ 7 màu của dãy quang phổ.Thế nhưng, không phải ai cũng biết rằng thuốc nhuộm tóc, bất kể loại nào, cũngđều có thể gây hại cho cơ thể. Nhẹ thì gây dị ứng, rụng tóc…, nặng thì ung thư.
Những hoá chất độc hại
Paraphenylenediamin là loại hoá chất thường được dùng trong thuốc nhuộm tóc. Thực nghiệm cho thấy, nếu dính vào da mặt, da đầu trong khi nhuộm tóc, thuốc này có thể gây ung thư da, ung thư vú. Hiện nay, một số nước châu Âu đã cấm dùng hoá chất này. Tại Mỹ, các chuyên gia y tế cũng đã chứng minh rằng Paraphenylenediamin gây dị ứng, chàm, hen, loét dạ dày, làm da mẩn đỏ, nhạy cảm với nắng và có thể gây tử vong nếu ngộ độc nặng.
Theo yêu cầu của Cơ quan Quản lý thực phẩm và dược phẩm Mỹ, nhà sản xuất phải ghi rõ trên bao bì của các chai thuốc nhuộm tóc có chứaParaphenylenediamin dòng chữ: "Lưu ý : Sản phẩm này chứa một loại hoạt chất có thể thấm qua da vàđã được xác nhận là gây ung thư trên súc vật thí nghiệm".
Các chất phụ gia như Propylenglycol và Isopropyl alcohol cũng gây tác hại không nhỏ. Propylenglycol ảnh hưởng tới gan, thận, não, cònIsopropyl alcohol thì có thể gây trầm cảm, nhức đầu.
Nhuộm tóc bằng thảo mộc
Người ta có thể dùng các chất nhuộm tự nhiên có trong cây cỏ để thay thế những hoá chất độc hại:
-Hoa trà: Trộn một nắm hoa trà với nước ấm và chanh vắt, ngâm khoảng nửa tiếng rồi bôi lên tóc từ ngọn đến chân. Ủ tóc trong 30 phút, rồi xả lại bằng nước lạnh.
-Cây đại hoàng: Cho 200 g chồi đại hoàng đã phơi khô vào 0,5 l rượu rồi đun đến khi còn lại một nửa. Để nguội, lọc rồi bôi lên tóc.
-Vỏ quả hồ đào: Nghiền vỏ còn xanh của quả hồ đào thành bột, bôi lên tóc khoảng 15-20 phút. Sau đó rửa lại bằng nước.
6 điều cần lưu ý khi nhuộm tóc
1. Không được nhuộm tóc khi vùng da ở đầu, mặt, cổ bị tổn thương hay sưng đau.
2. Phụ nữ trong thời gian hành kinh hay trong thai kỳ tuyệt đối không dùng thuốc nhuộm tóc.
3. Khi thuốc vào mắt, cần đến bác sĩ nhãn khoa.
4. Không nên nhuộm tóc một tuần trước và sau uốn tóc.
5. Những loại thuốc nhuộm tóc khi pha quá 30 phút mà chưa sử dụng phải đổ bỏ. Khi pha thuốc, cần tránh dùng các dụng cụ chứa làm bằng kim loại. Khi nhuộm tóc cũng không nên dùng lược chải bằng kim loại.
6. Trước khi nhuộm tóc cần phải thử phản ứng của thuốc trên da. Chấm một đầu nhỏlên da (bắp tay) rồi để khô tự nhiên sau 48 giờ. Nếu vùng da chấm thuốc bị nổiđỏ, sưng hoặc ngứa thì phải rửa ngay vết thuốc ở chỗ thử và tuyệt đối không nên dùng loại thuốc ấy nữa.
Chuyên đề 2:Hôi miệng
Sự trao đổi tâm tình giữa cha mẹ với con cái không phải lúc nào cũng được tiến hành một cách trơn tru. Các cô các cậu ở tuổi trưởng thành nhiều khi rất tự tin. Khi thảo luận với họ, đôi khi ta khó mà giữ được bình tĩnh và độ lượng. Nhiều khi họ tuyên bố những điều làm ta dựng tóc gáy. Có cô gái 16 tuổi tuyên bố rằng cô sẽ lấy chồng vào tuổi 17, hôm khác thì lại tuyên bố sẽ không bao giờ lấy chồng nhưng sẽ có được một đứa con. Nghe thế, cha mẹ nào mà không hết hồn. Nhưng thực ra, nhiều khi những điều cực đoan mà họ tuyên bố không phải là quan điểm thực sự của họ. Nói ra điều này, họ chỉ muốn chứng tỏ là sẽ hành động một cách độc lập, dứt khoát như… một người lớn. Là đối tượng giáo dục của cha mẹ, nhưng họ lại muốn trao đổi với cha mẹ một cách bình đẳng như những người ngang hàng. Có ông bố, bà mẹ kinh ngạc khi nghe lỏm buổi trao đổi chuyên đềtình dục của con với đám thanh niên, bạn bè. Ông con mình hôm qua đã phản đối ra mặt những quan điểm của cha mẹ, bây giờ lại khẳng định những quan điểm ấy rất tự nhiên như đó là quan niệm của chính mình vậy (có thể là hôm qua anh ta thích ngang ngạnh trước cha mẹ). Nhưng dù là thế đi nữa, bạn cũng đừng vội mừng. Những quan niệm ấy vẫn chưa phải là của anh ta. Anh ta vẫn đang tìm kiếm chỗ đứng của mình, chân lý của mình trong cái thế giới người lớn mà anh ta đang trên đường gia nhập.
Không ít thanh niên bước vào đời sống tình dục ngay từ quãng tuổi 16. Điều đó thật tai hại. Cái chín chắn của tuổi 16 vẫn chưa đủ để người ta có thể sống đời sống tình cảm thực sự của một con người. Sự giao tiếp tình dục đầu tiên bao giờ cũng có ý nghĩa sâu sắc, trọng đại trong cả đời người. Sự khởi đầu ấy đòi hỏi độchín chắn toàn diện cả về thể chất lẫn tâm lý. Cho nên không thể đồng nhất sựgiao hợp vì tình yêu với sự giao hợp vì tò mò, vì nhu cầu tình dục bản năng. Thậm chí cũng không thể nói rằng có sự giao hợp trước tuổi chỉ vì cả hai phía quá yêu nhau. Tình yêu là điều kiện cần nhưng ở tuổi mới trưởng thành nó vẫn chưa phải là điều kiện đủ, hơn nữa, chắc gì tình yêu ấy đã bền vững và sâu sắc.
Tuổi 16 hôm nay vẫn nên là thời kỳ của những ước mơ, khao khát, thời kỳ mà trai gái rùng mình khi chạm tay nhau, khi đem lại cho nhau những cái hôn rụt rè. Nói như vậy ta cảm giác như đang nói tới những tiểu thuyết tình ái đầu thế kỷ. Nhưng chúng ta không thể nhầm lẫn nội dung và hình thức của cái gọi là tính hiện đại. Sựphát triển về thể lực lẫn tình dục của con cái chúng ta mấy chục năm gần đây diễn ra nhanh hơn. Nhưng sự trưởng thành về thể chất đó lại phải trả giá bằng sự kéo dài quá trình phát triển về phương diện tinh thần. Các nhà tâm lý học hiện nay đã đặt cái mốc của sự trưởng thành toàn diện mãi tận tuổi 24. Cho nên nếu giải thích cú nhảy đầu tiên của con người vào đời sống tình dục bằng sựtrưởng thành về thể chất có nghĩa là ta đã khẳng định con người hiện đại phục tùng sức ép của bản năng.
Về mặt tình dục, sự trưởng thành của nam và nữ cũng rất khác nhau. Các cô gái khao khát sự dịu dàng và một tình yêu nồng nàn. Tuy vậy, về chuyện tình dục, các cô không hềnóng vội. Đây cũng là đặc trưng của phụ nữ tuổi trưởng thành. Trong suốt cả đời, điều người phụ nữ khao khát trước hết vẫn là tình cảm, sự quan tâm, chiều chuộng, tình dục chỉ là hình thức biểu hiện của nó mà thôi. Theo con số điều tra gần đây, bốn phần năm các cô gái ở tuổi trưởng thành không giao tiếp tình dục với người mà mình không yêu. Trong khi đó, chất bản năng của các chàng trai lại mạnh mẽ hơn. Dưới sức ép của bản năng, vào tuổi trưởng thành họ muốn giải phóng độ căng thẳng tình dục của mình. Về tình yêu, tạm thời họ không quan tâm lắm. Họ có nói tới tình yêu chẳng qua cũng chỉ vì cô bạn gái đòi hỏi họ.Trong thâm tâm, thực ra họ chỉ muốn tiến thẳng tới sự giao tiếp tình dục.Đó không phải là do họ xấu xa mà chỉ do khác về thể chất. Chỉ những cô gái chậm hiểu, thiếu nhạy cảm mới đi cáu bẳn về chuyện đó.
Trong một giađình hòa thuận, mọi người sống trách nhiệm với nhau, chẳng phải ai ngoài ông bốphải là người phải nhắc nhở cho con trai ý thức được rằng, vai trò truyền thống của người đàn ông trong nhà là vệ sĩ của phái yếu. Ông cũng là người có trách nhiệm nói cho con trai mình hiểu rằng, việc tán tỉnh, lợi dụng một cô gái nào đó nhằm giải trí là một việc làm xấu. Trong đời sống văn hóa của nhiều dân tộc, người đàn ông trong chuyện tình dục thường được tha thứ rộng rãi hơn đàn bà. Đôi khi, người đàn ông nào có nhiều “thành tích” trong lĩnh vực ái tình thì lại được coi như một người có uy tín. Chính người đàn ông đó, người mà các cậu con trai lớn thầm vị nể, sẽ có tác động giáo dục nhiều nhất khi ông ta (với tưcách là họ hàng hoặc một người bạn lớn tuổi) nói cho cậu thanh niên đang lớn hiểu rằng, những “chiến công” của ông thực ra rất ít ý nghĩa, “chả được mấy hơi”, rằng thậm chí ông đã phải trả giá cho những chiến công ấy bằng sự cùn mòn, thô lậu dần về mặt tình cảm, sự khủng hoảng, bất lực trong việc tìm kiếm và xây dựng một tổ ấm gia đình thực sự.
Thật ra, các ông bố (đáng tiếc là các ông rất hay quên) cũng có vai trò khá quan trọng trong việc hoàn chỉnh quá trình giáo dục tình dục cho cô con gái trong nhà. Thông qua thái độ cư xử của ông với vợ, con gái ông sẽ biết được vai trò và tầm quan trọng của người phụ nữ trong mình. Thông qua ông, con gái sẽ biết người đàn ông nhiệt tình với “cục cưng” của mình ra sao. Còn các bà mẹ thì phải nói với con gái của mình theo kiểu khác. Trước khi cô gái có những “vệ tinh” đầu tiên theođuổi, cô phải biết những thứ sáo ngữ, “những lời có cánh” mà đám đàn ông (cảtrẻ lẫn già) hay dùng để chinh phục các cô. Người đàn ông yêu cô rất hay khẩn khoản cô phải chứng tỏ “triệt để” rằng cô yêu thật. Đồng thời anh ta cũng có thể vờ bỏ đi để tỏ ra là mình không phải là người thích nài ép. Anh ta cũng đủtrí thông minh để tìm cách khơi dậy ở cô sự cảm thông, cho cô tin rằng đàn ông rất cần “cái đó”, nếu không thực sự yêu anh, thì buộc lòng anh phải đi tìm người khác... Cô gái đang được yêu nên biết rằng trước những lời lẽ đó, nếu cô cả nể, chiều theo thì cô sẽ không bảo vệ được tình yêu, bởi vì sau đó cô chẳng có gì để bảo vệ nữa. Có những người đàn ông đứng tuổi, có vợ rồi cũng cố gắng chinh phục cô bằng những lời lẽ mủi lòng rằng, cho tới bây giờ ông ta mới gặp người phụ nữ duy nhất trên đời này hiểu ông, rằng ông vô cùng hạnh phúc vì đã gặp cô, người mà ông suốt đời mong đợi…
Sự hàng phục trước những lời lẽ ngon ngọt đó dĩ nhiên không phải là biểu hiện của tình yêu mà chỉ là bằng chứng của sự ngây thơ, non nớt. Cho nên, còn ai khác ngoài bà mẹphải là người phải giải thích kịp thời cho cô con gái biết những điều đó?
Còn ai khác ngoài ông bố, người thực hiện những hành vi cụ thể của mình trong cư xử với vợ, gián tiếp cho cô con gái biết rằng người đàn bà có quyền yêu cầu ngườiđàn ông mình yêu những gì? Còn ai khác ngoài cha mẹ, những người phải làm cho cậu con trai của mình ý thức được trách nhiệm trước người con gái mình yêu?
Nấmăn
là những loại nấm không độc hại, được con người dùng làm thực phẩm. Ở
Trung Quốc, nấm hương đã được biết đến từ thời Xuân thu Chiến quốc. Nấm
được các y thư cổ đánh giá là thứ "ăn được, bồi bổ được, có thể dùng làm
thuốc, toàn thân đều quý giá".
Trong giới sinh vật có gần 7 vạn loài nấm, nhưng chỉ có hơn 100 loài có thể ăn hoặc dùng làm thuốc, thông dụng nhất là mộc nhĩ đen, ngân nhĩ, nấm hương, nấm mỡ, nấm rơm, nấm kim châm, nấm trư linh... Ngoài nguồn thu hái từ thiên nhiên, người ta đã trồng được hơn 60 loài theo phương pháp công nghiệp với năng suất cao. Nhiều nhà khoa học cho rằng, nấm sẽ là một trong những thực phẩm rất quan trọng và thông dụng của con người trong tương lai.
Ngoài giá trị cung cấp các chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể, nấm ăn còn có nhiều tác dụng dược lý khá phong phú như:
Tăng cường khả năng miễn dịch của cơ thể:Các polysaccharide trong nấm có khả năng hoạt hóa miễn dịch tế bào, thúc đẩy quá trình sinh trưởng và phát triển của tế bào lympho, kích hoạt tế bào lympho T và lympho B. Nấm linh chi, nấm vân chi, nấm đầu khỉ và mộc nhĩ đen còn có tác dụng nâng cao năng lực hoạt động của đại thực bào.
Kháng ung thư và kháng virus: Trên thực nghiệm, hầu hết các loại nấm ăn đều có khảnăng ức chế sự phát triển của tế bào ung thư. Với nấm hương, nấm linh chi và nấm trư linh, tác dụng này đã được khảo sát và khẳng định trên lâm sàng. Nhiều loại nấm ăn có công năng kích thích cơ thể sản sinh interferon, nhờ đó ức chế được quá trình sinh trưởng và lưu chuyển của virus.
Dự phòng và trị liệu các bệnh tim mạch: Nấm ăn có tác dụng điều tiết công năng tim mạch, làm tăng lưu lượng máu động mạch vành, hạ thấp oxy tiêu thụ và cải thiện tình trạng thiếu máu cơ tim. Các loại nấm như ngân nhĩ (mộc nhĩ trắng), mộc nhĩ đen, nấm đầu khỉ, nấm hương,đông trùng hạ thảo... đều có tác dụng điều chỉnh rối loạn lipid máu, làm hạlượng cholesterol, triglycerid và beta-lipoprotein trong huyết thanh. Ngoài ra, nấm linh chi, nấm mỡ, nấm rơm, nấm kim châm, ngân nhĩ, mộc nhĩ đen còn có tác dụng làm hạ huyết áp.
Giải độc và bảo vệ tế bào gan: Kết quả nghiên cứu cho thấy, nhiều loại nấm ăn có tác dụng giải độc và bảo vệtế bào gan rất tốt. Ví như nấm hương và nấm linh chi có khả năng làm giảm thiểu tác hại đối với tế bào gan của các chất như carbon tetrachlorid, thioacetamide và prednisone, làm tăng hàm lượng glucogen trong gan và hạ thấp men gan. Nấm bạch linh và trư linh có tác dụng lợi niệu, kiện tỳ, an thần, thường được dùng trong những đơn thuốc Đông dược điều trị viêm gan cấp tính.
Kiện tỳ dưỡng vị: Nấm đầu khỉcó khả năng lợi tạng phủ, trợ tiêu hóa, có tác dụng rõ rệt trong trị liệu các chứng bệnh như chán ăn, rối loạn tiêu hóa, viêm loét dạ dày tá tràng. Nấm bình có tác dụng ích khí sát trùng, phòng chống viêm gan, viêm loét dạ dày tá tràng, sỏi mật. Nấm kim châm và nấm kim phúc chứa nhiều arginine, có công dụng phòng chống viêm gan và loét dạ dày.
Hạ đường máu và chống phóng xạ:Khá nhiều loại nấm ăn có tác dụng làm hạ đường máu như ngân nhĩ, đông trùng hạthảo, nấm linh chi... Cơ chế làm giảm đường huyết của đông trùng hạ thảo là kích thích tuyến tụy bài tiết insulin. Ngoài công dụng điều chỉnh đường máu, các polysaccharide B và C trong nấm linh chi còn có tác dụng chống phóng xạ.
Thanh trừ các gốc tự do và chống lão hóa: Gốc tự do là các sản phẩm có hại của quá trình chuyển hóa tế bào. Nhiều loại nấm ăn như nấm linh chi, mộc nhĩ đen, ngân nhĩ... có tác dụng thanh trừ các sản phẩm này, làm giảm chất mỡ trong cơ thể, từ đó có khả năng làm chậm quá trình lão hóa và kéo dài tuổi thọ.
Ngoài ra, nhiều loại nấm ăn còn có tác dụng an thần, trấn tĩnh, rất có lợi cho việc điều chỉnh hoạt động của hệ thần kinh trung ương. Gần đây, nhiều nhà khoa học còn phát hiện thấy một số loại nấm ăn có tác dụng phòng chống AIDS ở mức độnhất định, thông qua khả năng nâng cao năng lực miễn dịch của cơ thể.
Một số loại nấm ăn điển hình
Nấm hương: Còn gọi là nấm đông cô, hương cô, hương tín, hương tẩm..., được mệnh danh là “hoàng hậu thực vật”,là “vua của các loại rau” (can thái chi vương). Trong 100 g nấm hương khô có 12-14 g protein (vượt xa so với nhiều loại rau khác). Nấm hương có tác dụngđiều tiết chuyển hóa, tăng cường năng lực miễn dịch của cơ thể, ức chế tế bào ung thư, hạ huyết áp, giảm cholesterol máu, phòng ngừa sỏi mật và sỏi tiết niệu, trợ giúp tiêu hóa... Đây là thức ăn lý tưởng cho những người bị thiếu máu do thiếu sắt, cao huyết áp, tiểu đường, rối loạn lipid máu, trẻ em suy dinh dưỡng.
Nấm rơm: Còn gọi là bình cô, lan hoa cô, ma cô..., là một trong những loại nấm ăn được sử dụng rất rộng rãi, có giá trị dinh dưỡng khá cao. Nấm rơm là thức ăn rất tốt cho những người bịcao huyết áp, rối loạn lipid máu, vữa xơ động mạch, tiểu đường, ung thư và các bệnh lý mạch vành tim.
Nấm mỡ: Còn gọi là nhục tẩm, bạch ma cô, dương ma cô..., cũng là một trong những loại nấm có giá trị dinh dưỡng cao. Nấm mỡ có tác dụng làm giảm đường và cholesterol máu, phòng chống ung thư và cải thiện chức năng gan. Bởi vậy, đây là loại thực phẩm rất thích hợp cho những người bị ung thư, tiểu đường, tăng cholesterol máu, cao huyết áp, giảm bạch cầu và viêm gan.
Ngân nhĩ: Còn gọi là mộc nhĩtrắng, bạch mộc nhĩ, nấm bạc, bạch nhĩ tử..., cũng là một loại nấm khá giàu chất dinh dưỡng. Ngân nhĩ có tác dụng tăng cường khả năng miễn dịch của cơ thể,nâng cao năng lực tạo máu của tủy xương, cải thiện chức năng của gan và thận, thúcđẩy quá trình tổng hợp protid trong gan, làm giảm cholesterol máu, chống phù và chống phóng xạ. Bởi vậy, ngân nhĩ là thực phẩm rất tốt cho những người bị suy nhược cơ thể, suy nhược thần kinh, bị các bệnh lý đường hô hấp, cao huyết áp, thiểu năng tuần hoàn não...
Mộc nhĩ đen: Còn gọi là vân nhĩ, thụ kê, mộc nhu, mộc khuẩn... Mộc nhĩ đen chứa nhiều protid, chất khoáng và vitamin. Mộc nhĩ đen có khả năng ức chế quá trình ngưng tập tiểu cầu, phòng chống tình trạng đông máu do nghẽn mạch, ngăn cản sự hình thành các mảng vữa xơtrong lòng huyết quản. Ngoài ra, còn có tác dụng chống lão hóa, chống ung thưvà phóng xạ. Bởi vậy, mộc nhĩ đen là thực phẩm lý tưởng cho những người bị cao huyết áp, vữa xơ động mạch, thiểu năng tuần hoàn não, thiểu năng động mạch vành và ung thư.
Chuyên đề 5:BÉO PHÌ NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT
Trong 6 tháng đầu năm 1999, Trung tâm khám chữa bệnh và tư vấn sức khỏe Ngọc Khánh đã phát hiện hàng trăm trường hợp béo phì và những bệnh liên quan như đái tháođường, tăng huyết áp (ở nữ nhiều hơn nam), trẻ em béo phì cũng không hiếm.
Tác giả bài này muốn chia xẻ cùng bạn đọc những hiểu biết mới nhất về chứng béo phì, là một vấn đề đáng được quan tâm trong chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
? Thừa cân nặng chưa hẳn là béo phì
Thử dẫn chứng một số ví dụ (4 vị thành niên này đều là nữ):
1. L.T.N.Y 9 tuổi (Bái Thượng, Thọ Xuân, Thanh Hóa); nặng 42,5kg; cao 1,38m.
2. N.M.H 12 tuổi (Bãi Cháy, Hạ Long); nặng 67kg; cao 1,43m.
3. T.Đ.D.A 13 tuổi (216 phố Bạch Mai, Hà Nội); nặng 68kg; cao 1,47m.
4. A.T 16 tuổi (Tân Mai, Hòa Bình); nặng 61kg; cao 1,53m.
Theo công bốmới đây của Viện Nhi khoa thì cân nặng trung bình của các trẻ em gái 9 tuổi là 23,9kg, 12 tuổi là 34kg, 13 tuổi là 37kg và 16 tuổi là 44kg. Nếu dựa vào những trị số này, ở cả 4 trường hợp nói trên, các trị số cân nặng đều thừa (vượt quá trị số trung bình) từ 70% đến 100% (gần gấp đôi bình thường) và nhìn vào ngoại hình đều có thể được xem là béo phì.
Thế nhưng, theo các nhà dinh dưỡng học thừa cân nặng (overweight)không luôn luôn đồng nghĩa với béo phì (obesity). Muốn kết luận là béo phì phải dựa chỉsố khối thân thể (BMI là viết tắt của cụm từ tiếng Anh: Body Mass Index).
BMI được tính theo công thức
Áp dụng công thức này cho 4 trường hợp nói trên thì các trị số BMI lần lượt sẽ là: (1) 22kg/m2; (2) 32kg/m2; (3) 31kg/m2 và (4) 27kg/m2.
Cũng theo các nhà dinh dưỡng, chỉ số BMI có ý nghĩa nói lên những nguy cơ cho sức khỏe của những người thừa cân nặng, đúng hơn: của người béo phì, cụ thể là:
BMI = 20-25kg/m2 được xem là có một cân nặng ưu việt với đa số, ở đây là trường hợp (1). (22 kg/m2)
BMI = 27kg/m2 trở đi gọi là thừa cân nặng ở đây rơi vào trường hợp (4). (27kg/m2)
BMI = 30kg/m2 trở đi được xếp là béo phì thực sự ở đây là trường hợp (2) (32kg/m2) và trường hợp (3). (31kg/m2)
? Béo phì có những biến chứng gì?
Tỷ lệ tử vong cao có liên quan đến béo phì trước hết do gia tăng các nguy cơ bệnh tim mạch, cao huyết áp, đái tháo đường và có thể một vài typ ung thư nữa.
- Hệ tim mạch: Ngoài việc làm tăng gánh nặng cho tim, béo phì có thể còn có trách nhiệm trong các trường hợp chết bất ngờ (đột tử) vì loạn nhịp tim, và tăng nguy cơ bệnh xơ vữa động mạch liên quan đến tăng nồng độchất béo trong máu là chất liùpoprotein cholesterol tỷ trọng thấp.
- Đái tháo đường: Bệnh đái tháo đường typ 2 (không phụ thuộc insulin) trên nguyên tắc không bao giờ hiện diện ở những người có chỉ số BMI dưới 22kg/m2. Người ta nhận thấy nguy cơ gia tăng bệnh đái tháo đường ở người béo phì phụ thuộc nhiều vào yếu tố gia đình. Một công trình nghiên cứu cho thấy nếu một hoặc cả hai bố mẹ mắc bệnh đái tháo đường thì gần 100% số con cái sẽ mắc bệnh này nếu có chứng béo phì; còn nếu cả hai bốmẹ đều không mắc thì nguy cơ nói trên chỉ có 20% mà thôi.
- Ung thư: Tỷ lệ mắc ung thư nội mạc tử cung và ung thư vú ở phụ nữ mãn kinh, tỷ lệ ung thư tuyến tiền liệt ở nam giới và tỷ lệung thư ruột kết - ruột thẳng ở cả nam lẫn nữ thấy có liên quan đến mức độ béo phì. Người ta cho rằng sở dĩ phụ nữ béo phì dễ mắc ung thư nội mạc tử cung và ung thư vú là vì lý do tăng sản xuất chất nội tiết estrogen trong các mô tế bào mỡ.
- Bệnh sỏi mật: Bệnh sỏi mật gia tăngở người béo phì (và gia tăng theo tuổi) có lẽ liên quan đến mức gia tăng bài xuất chất cholesterol của mật. Lượng cholesterol được cơ thể tổng hợp mỗi ngày gia tăng chừng 20mg với mỗi kg mô tế bào mỡ, thành thử một khối gia tăng 10kg tế bào mô mỡ sẽ làm tăng sản xuất và bài tiết một lượng cholesterol tương đương một lòng đỏ trứng gà và đó là lý do sẽ tạo thành các sỏi mật chứa cholesterol ở người béo phì.
- Rối loạn chức năng phổi: Béo phì mức độ vừa và không có bệnh phổi thì ít có ảnh hưởng đến chức năng hô hấp. Thế nhưng, cơn ngừng thở lúc ngủ lại có thể xảy ra với những người béo phì nặng và đây là một vấn đề nghiêm trọng cần được đặt ra. Người ta cho rằng ngừng thở tắc nghẽn lúc ngủ là do lượng mỡ tích tụ quá nhiều tại vùng khí phếquản. Những đợt ngừng thở do tắc nghẽn này xảy ra liên tiếp trong giấc ngủ sẽdẫn tới biến cố giảm oxy máu và tăng thán khí (CO2) trong máu, có thể gây tử vong.
- Rối loạn nội tiết: Đáng kể là nồng độtestosterone trong máu giảm ở đàn ông béo phì và có ảnh hưởng thực sự đến sinh hoạt tình dục. Còn ở nữ giới béo phì thì thường có kinh sớm, kinh không đều, có những chu kỳ kinh không phóng noãn (không có khả năng thụthai) và mãn kinh sớm. Những phụ nữ béo phì mà các khối mỡ tập trung trong các nội tạng thì sản xuất ra nhiều nội tiết tố nam (testosterol), còn mỡ tập trung nhiều ở mông và đùi thì sản xuất ra nhiều chất nội tiết tố nữ (estrogen).
Chúc các bạn luôn vui-khỏe...NDD
Mời các bạn xem vài chuyên đề về sức khỏe
Chuyên đề 1: Cẩn thận khi dùng thuốc nhuộm tóc
Thuốc nhuộm tóc có thể gây ung thư. |
Theo nghiên cứu của Viện Ung thư quốc gia Mỹ, nhuộm tóc càng lâu, dùng màu càng đậm thì nguy cơ mắc bệnh ung thư càng cao. Tỷ lệ ung thư ở những phụ nữ dùng thuốc nhuộm tóc cao hơn 50% so với những người không dùng thuốc này.
Anh T.N.T., 43 tuổi, sau khi nhuộm tóc khoảng nửa giờ đã phải đến gặp bác sĩ chuyên khoa da liễu vì đầu bị nổi những cục sẩn ngứa ngáy, khó chịu. Bác sĩ kết luận anh bị viêm da đầu do nhuộm tóc.Đây không phải là trường hợp cá biệt. Hiện nay, tại các cửa hàng làm tóc, các thợ đều ra sức tìm cách thuyết phục "thượng đế" trẻ nhuộm tóc theo các "model" được in sẵn trong catalogue, với đủ 7 màu của dãy quang phổ.Thế nhưng, không phải ai cũng biết rằng thuốc nhuộm tóc, bất kể loại nào, cũngđều có thể gây hại cho cơ thể. Nhẹ thì gây dị ứng, rụng tóc…, nặng thì ung thư.
Những hoá chất độc hại
Paraphenylenediamin là loại hoá chất thường được dùng trong thuốc nhuộm tóc. Thực nghiệm cho thấy, nếu dính vào da mặt, da đầu trong khi nhuộm tóc, thuốc này có thể gây ung thư da, ung thư vú. Hiện nay, một số nước châu Âu đã cấm dùng hoá chất này. Tại Mỹ, các chuyên gia y tế cũng đã chứng minh rằng Paraphenylenediamin gây dị ứng, chàm, hen, loét dạ dày, làm da mẩn đỏ, nhạy cảm với nắng và có thể gây tử vong nếu ngộ độc nặng.
Theo yêu cầu của Cơ quan Quản lý thực phẩm và dược phẩm Mỹ, nhà sản xuất phải ghi rõ trên bao bì của các chai thuốc nhuộm tóc có chứaParaphenylenediamin dòng chữ: "Lưu ý : Sản phẩm này chứa một loại hoạt chất có thể thấm qua da vàđã được xác nhận là gây ung thư trên súc vật thí nghiệm".
Các chất phụ gia như Propylenglycol và Isopropyl alcohol cũng gây tác hại không nhỏ. Propylenglycol ảnh hưởng tới gan, thận, não, cònIsopropyl alcohol thì có thể gây trầm cảm, nhức đầu.
Nhuộm tóc bằng thảo mộc
Người ta có thể dùng các chất nhuộm tự nhiên có trong cây cỏ để thay thế những hoá chất độc hại:
-Hoa trà: Trộn một nắm hoa trà với nước ấm và chanh vắt, ngâm khoảng nửa tiếng rồi bôi lên tóc từ ngọn đến chân. Ủ tóc trong 30 phút, rồi xả lại bằng nước lạnh.
-Cây đại hoàng: Cho 200 g chồi đại hoàng đã phơi khô vào 0,5 l rượu rồi đun đến khi còn lại một nửa. Để nguội, lọc rồi bôi lên tóc.
-Vỏ quả hồ đào: Nghiền vỏ còn xanh của quả hồ đào thành bột, bôi lên tóc khoảng 15-20 phút. Sau đó rửa lại bằng nước.
6 điều cần lưu ý khi nhuộm tóc
1. Không được nhuộm tóc khi vùng da ở đầu, mặt, cổ bị tổn thương hay sưng đau.
2. Phụ nữ trong thời gian hành kinh hay trong thai kỳ tuyệt đối không dùng thuốc nhuộm tóc.
3. Khi thuốc vào mắt, cần đến bác sĩ nhãn khoa.
4. Không nên nhuộm tóc một tuần trước và sau uốn tóc.
5. Những loại thuốc nhuộm tóc khi pha quá 30 phút mà chưa sử dụng phải đổ bỏ. Khi pha thuốc, cần tránh dùng các dụng cụ chứa làm bằng kim loại. Khi nhuộm tóc cũng không nên dùng lược chải bằng kim loại.
6. Trước khi nhuộm tóc cần phải thử phản ứng của thuốc trên da. Chấm một đầu nhỏlên da (bắp tay) rồi để khô tự nhiên sau 48 giờ. Nếu vùng da chấm thuốc bị nổiđỏ, sưng hoặc ngứa thì phải rửa ngay vết thuốc ở chỗ thử và tuyệt đối không nên dùng loại thuốc ấy nữa.
Chuyên đề 2:Hôi miệng
Thường
thì vào buổi sang, người ta hay bị hôi miệng. Hôi miệng không có ảnh
hưởng gì tới sức khỏe con người, nhưng đôi khi làm cản trở sự giao tế
hàng ngày, có thể ảnh hưởng một phần nào tới công việc làm ăn của chúng
ta.
Những hóa chất làm cho hôi miệng :
Mùi
hôi là do chất hơi có lưu huỳnh (Sulfur), như: hydrogen sulfide,
methyl mercaptan, dimethyl sulfide, và dimethyl disulfides. Đôi khi,
mùi hôi do những chất hơi acids béo (fatty acids) như propionic,
butyric, hay valeric acids hay những chất amines (indole, skatole,
cadaverine và putrescine).
Nguyên nhân hôi miệng :
. Hôi miệng tùy thuộc vào lượng nước miếng tiết ra, lúc chúng ta nhai hay nuốt.
. Chất
hơi lưu huỳnh thấm vào mô mềm trong miệng. Khi nước miếng hay mô mềm
trong miệng không đủ sức giữ chất hơi lưu huỳnh, xông ra, sẽ làm hôi
miệng.
. Vi trùng trong miệng nảy nở tùy theo từng loại, cộng thêm vấn đề vệ sinh, thói quen ăn uống, và lượng nước miếng tiết ra.
. Những
môi trường như thay đổi nhiệt độ, ẩm ướt, đồ ăn thức uống, dưỡng khí,
và độ cường toan pH, đều ảnh hưởng tới hôi miệng.
Bệnh hôi miệng do răng lợi :
. Phần
lớn bệnh hôi miệng là do vi trùng nẩy nở trong những hang hốc trong
miệng. Đồ ăn chứa chất trong những lỗ hổng trong lợi, sâu răng, kẽ
răng, mặt lưỡi, đều là những chỗ lý tưởng cho vi trùng sinh sản.
. Độ hôi miệng, tăng theo tuổi tác, nhất là khi dùng răng giả, là nơi dễ bị đồ ăn mắc kẹt.
. Một phần ba bị hôi miệng là do bệnh nướu răng sinh ra. Nước miếng bệnh nướu răng dễ làm hôi thối.
. Những bệnh khác cũng làm hôi miệng
như: viêm miệng, lưỡi, lợi nướu răng hay viêm thịt dư trong họng
(cryptic tonsils), nghẹt hay giảm bài tiết nước miếng (xerostomia).
Hôi miệng do thuốc men :
. Những
thuốc men có thể gây hôi miệng như: thuốc cao huyết áp, thuốc an thần,
thuốc chữa bệnh xuống tinh thần (depression), thuốc chống histamines,
chữa bệnh Parkinson, thuốc lợi tiểu, amphetamines, v.. v..
Hôi miệng do một số bệnh tật khác trong cơ thể gây nên :
. 10% là do những bệnh khác như viêm
xoang, viêm thịt dư trong cuống họng (tonsillitis), và bệnh mũi (thí dụ
có vật lạ rớt vào muĩ), viêm xoang. Những loại bệnh khác nằm trong
phổi như giãn khí quản (bronchiectasis), bướu mụt hay lở loét làm mủ,
bọc mủ (abscess), hay ung thư bị nhiễm trùng.
. Bệnh tiểu đường có nhiều chất acetone và ketones xông ra qua đường phổi.
. Bệnh Urê-huyết (azotemia), có chất ammoniac.
. Bệnh chai gan làm cho hơi thở hôi, như có mùi tỏi hay trứng thối, do những chất dimethyl sulfides, methyl mercaptan, và ethanethiol.
. Bệnh thận hư, có mùi tanh như cá, do chất dimethylamines và trimethylamines.
. Ung thư máu (leukemia) hay những bệnh loạn tạo máu (blood dyscrasia) làm cho hơi thở có mùi như máu bị hư, tan rã (decaying blood).
.
Những bệnh liên quan đến bao tử ít làm hôi miệng, vì ống thực quản
luôn luôn đóng kín và xẹp lại. Còn bao tử chỉ sinh ra mùi hôi, khi bị ợ
hay ói mửa. Có những bệnh khác như ợ chua, trào ngược nước chua từ ba
tưử trơở ngược vào thực quản (heartburn), hẹp môn vị (pyloric
stenosis), hay thoát vị khe thực quản (hiatal hernia) cũng sinh ra hôi
miệng.
. Phụ nữ
trong thời kỳ kinh nguyệt, thay đổi kích thích tố trong người, sinh ra
chất hơi có lưu huỳnh bay qua đường phổi làm hôi miệng.
Do đồ ăn, hút thuốc lá:
. Ăn uống
đôi khi có thể giúp đỡ hôi miệng, vì nước miếng ra nhiều, làm sạch
miệng. Nhưng ngược lại có nhiều đồ ăn lại làm hôi miệng như: tỏi, hành,
rượu. Trong hành tỏi có nhiều chất gây mùi hôi như allicin và dallyl
sulfite.
. Hút thuốc lá hay xì-gà gây hôi miệng vì làm giảm nước miếng trong miệng.
Nói tóm lại, có rất nhiều nguyên nhân sinh
ra hôi miệng: phần lớn là do những bệnh trong miệng, răng lợi, những
bệnh tai mũi họng, hay nhiều bệnh khác nằm trong cơ thể chúng ta.
Cập Nhật: Phần
lớn hôi miệng là do vi trùng phân tán bạch đản gây ra chất hơi chứa
lưu huỳnh sulfur. Khoảng 80-90% là do những tảng (plaques) trong răng
miệng, bệnh niếu lợi, miệng khô, đặc biệt do vi trùng gram âm tính sống
trong môi trường thiếu dưỡng khí. . Vi trùng sinh sản qúa nhiều vùng
trong, trên lưỡi. Hôi miệng thấy nhiều nhất ban đêm hay giữa những bữa
ăn.
20% hôi
miệng là do những bệnh rối loạn dinh dưỡng, như suy gan, suy thận hay
tiểu đường, nước tiểu chứa chất trimethylamine, nhiễm trùng hô hấp,
thuốc men hoặc do dịch bao tử. Định bệnh hôi miệng không khó nhưng tìm
hiểu nguyên nhân hôi miệng không dễ dàng.
Vài cách điều trị hôi miệng như:
súc miệng bằng thuốc có chất chlorhexidine gluconate, Peridex hay
Perio-guard (cần toa bác sĩ), trong 6 tháng có thể giảm vi trùng gram
âm tính trong miệng. Súc miệng có chất cetylpyridinium, benzethonium
chloride, phenolic-oil, sodium bicarbonate, zinc chloride, hoặc chất
kẽm có chất alpha-ionone có thể giảm đượ cnhững chất gây hôi miệng như
hydrogen peroxide hay methyl mercaptan (khoảng 24%-59%). Dùng những
thuốc kể trên phải hỏi ý kiến bác sĩ.
References:
1) L Feller and Bligaut, SADJ, 60: 17, 2005;
2) M Reiss, G Reiss, Wien Med Wochenschr.150: 98-100, 2000;
Y Dược Ngày Nay, www.yduocngaynay.com
|
Chuyên đề 3:Những mối tình đầu
Học xong phổthông cơ sở, bước vào phổ thông trung học, các chàng trai, cô gái của chúng ta bắt đầu bước vào thời kỳ dễ phải lòng nhau. Đó là thời kỳ của những tình cảm khác giới, của những mối tình đầu. Đó cũng là lúc các bà mẹ thấy khó mà ngủ ngon, lo lắng theo dõi lịch hành kinh của con gái, phấp phỏng về những điều không hay nào đó đang rình rập quanh đứa con gái vụng dại của mình. Cha mẹ lo con mình sau này yêu phải một người không hợp, lo con quan hệ tình dục trước tuổi, sợ con mình chửa hoang. Không thể giam con nhỏ như giam trong tu viện, cũng không thể theo dõi con ở mọi nơi mọi lúc. Thôi thì… còn cách nào khác hơn là tin vào hiệu quả giáo dục của mình!Sự trao đổi tâm tình giữa cha mẹ với con cái không phải lúc nào cũng được tiến hành một cách trơn tru. Các cô các cậu ở tuổi trưởng thành nhiều khi rất tự tin. Khi thảo luận với họ, đôi khi ta khó mà giữ được bình tĩnh và độ lượng. Nhiều khi họ tuyên bố những điều làm ta dựng tóc gáy. Có cô gái 16 tuổi tuyên bố rằng cô sẽ lấy chồng vào tuổi 17, hôm khác thì lại tuyên bố sẽ không bao giờ lấy chồng nhưng sẽ có được một đứa con. Nghe thế, cha mẹ nào mà không hết hồn. Nhưng thực ra, nhiều khi những điều cực đoan mà họ tuyên bố không phải là quan điểm thực sự của họ. Nói ra điều này, họ chỉ muốn chứng tỏ là sẽ hành động một cách độc lập, dứt khoát như… một người lớn. Là đối tượng giáo dục của cha mẹ, nhưng họ lại muốn trao đổi với cha mẹ một cách bình đẳng như những người ngang hàng. Có ông bố, bà mẹ kinh ngạc khi nghe lỏm buổi trao đổi chuyên đềtình dục của con với đám thanh niên, bạn bè. Ông con mình hôm qua đã phản đối ra mặt những quan điểm của cha mẹ, bây giờ lại khẳng định những quan điểm ấy rất tự nhiên như đó là quan niệm của chính mình vậy (có thể là hôm qua anh ta thích ngang ngạnh trước cha mẹ). Nhưng dù là thế đi nữa, bạn cũng đừng vội mừng. Những quan niệm ấy vẫn chưa phải là của anh ta. Anh ta vẫn đang tìm kiếm chỗ đứng của mình, chân lý của mình trong cái thế giới người lớn mà anh ta đang trên đường gia nhập.
Không ít thanh niên bước vào đời sống tình dục ngay từ quãng tuổi 16. Điều đó thật tai hại. Cái chín chắn của tuổi 16 vẫn chưa đủ để người ta có thể sống đời sống tình cảm thực sự của một con người. Sự giao tiếp tình dục đầu tiên bao giờ cũng có ý nghĩa sâu sắc, trọng đại trong cả đời người. Sự khởi đầu ấy đòi hỏi độchín chắn toàn diện cả về thể chất lẫn tâm lý. Cho nên không thể đồng nhất sựgiao hợp vì tình yêu với sự giao hợp vì tò mò, vì nhu cầu tình dục bản năng. Thậm chí cũng không thể nói rằng có sự giao hợp trước tuổi chỉ vì cả hai phía quá yêu nhau. Tình yêu là điều kiện cần nhưng ở tuổi mới trưởng thành nó vẫn chưa phải là điều kiện đủ, hơn nữa, chắc gì tình yêu ấy đã bền vững và sâu sắc.
Tuổi 16 hôm nay vẫn nên là thời kỳ của những ước mơ, khao khát, thời kỳ mà trai gái rùng mình khi chạm tay nhau, khi đem lại cho nhau những cái hôn rụt rè. Nói như vậy ta cảm giác như đang nói tới những tiểu thuyết tình ái đầu thế kỷ. Nhưng chúng ta không thể nhầm lẫn nội dung và hình thức của cái gọi là tính hiện đại. Sựphát triển về thể lực lẫn tình dục của con cái chúng ta mấy chục năm gần đây diễn ra nhanh hơn. Nhưng sự trưởng thành về thể chất đó lại phải trả giá bằng sự kéo dài quá trình phát triển về phương diện tinh thần. Các nhà tâm lý học hiện nay đã đặt cái mốc của sự trưởng thành toàn diện mãi tận tuổi 24. Cho nên nếu giải thích cú nhảy đầu tiên của con người vào đời sống tình dục bằng sựtrưởng thành về thể chất có nghĩa là ta đã khẳng định con người hiện đại phục tùng sức ép của bản năng.
Về mặt tình dục, sự trưởng thành của nam và nữ cũng rất khác nhau. Các cô gái khao khát sự dịu dàng và một tình yêu nồng nàn. Tuy vậy, về chuyện tình dục, các cô không hềnóng vội. Đây cũng là đặc trưng của phụ nữ tuổi trưởng thành. Trong suốt cả đời, điều người phụ nữ khao khát trước hết vẫn là tình cảm, sự quan tâm, chiều chuộng, tình dục chỉ là hình thức biểu hiện của nó mà thôi. Theo con số điều tra gần đây, bốn phần năm các cô gái ở tuổi trưởng thành không giao tiếp tình dục với người mà mình không yêu. Trong khi đó, chất bản năng của các chàng trai lại mạnh mẽ hơn. Dưới sức ép của bản năng, vào tuổi trưởng thành họ muốn giải phóng độ căng thẳng tình dục của mình. Về tình yêu, tạm thời họ không quan tâm lắm. Họ có nói tới tình yêu chẳng qua cũng chỉ vì cô bạn gái đòi hỏi họ.Trong thâm tâm, thực ra họ chỉ muốn tiến thẳng tới sự giao tiếp tình dục.Đó không phải là do họ xấu xa mà chỉ do khác về thể chất. Chỉ những cô gái chậm hiểu, thiếu nhạy cảm mới đi cáu bẳn về chuyện đó.
Trong một giađình hòa thuận, mọi người sống trách nhiệm với nhau, chẳng phải ai ngoài ông bốphải là người phải nhắc nhở cho con trai ý thức được rằng, vai trò truyền thống của người đàn ông trong nhà là vệ sĩ của phái yếu. Ông cũng là người có trách nhiệm nói cho con trai mình hiểu rằng, việc tán tỉnh, lợi dụng một cô gái nào đó nhằm giải trí là một việc làm xấu. Trong đời sống văn hóa của nhiều dân tộc, người đàn ông trong chuyện tình dục thường được tha thứ rộng rãi hơn đàn bà. Đôi khi, người đàn ông nào có nhiều “thành tích” trong lĩnh vực ái tình thì lại được coi như một người có uy tín. Chính người đàn ông đó, người mà các cậu con trai lớn thầm vị nể, sẽ có tác động giáo dục nhiều nhất khi ông ta (với tưcách là họ hàng hoặc một người bạn lớn tuổi) nói cho cậu thanh niên đang lớn hiểu rằng, những “chiến công” của ông thực ra rất ít ý nghĩa, “chả được mấy hơi”, rằng thậm chí ông đã phải trả giá cho những chiến công ấy bằng sự cùn mòn, thô lậu dần về mặt tình cảm, sự khủng hoảng, bất lực trong việc tìm kiếm và xây dựng một tổ ấm gia đình thực sự.
Thật ra, các ông bố (đáng tiếc là các ông rất hay quên) cũng có vai trò khá quan trọng trong việc hoàn chỉnh quá trình giáo dục tình dục cho cô con gái trong nhà. Thông qua thái độ cư xử của ông với vợ, con gái ông sẽ biết được vai trò và tầm quan trọng của người phụ nữ trong mình. Thông qua ông, con gái sẽ biết người đàn ông nhiệt tình với “cục cưng” của mình ra sao. Còn các bà mẹ thì phải nói với con gái của mình theo kiểu khác. Trước khi cô gái có những “vệ tinh” đầu tiên theođuổi, cô phải biết những thứ sáo ngữ, “những lời có cánh” mà đám đàn ông (cảtrẻ lẫn già) hay dùng để chinh phục các cô. Người đàn ông yêu cô rất hay khẩn khoản cô phải chứng tỏ “triệt để” rằng cô yêu thật. Đồng thời anh ta cũng có thể vờ bỏ đi để tỏ ra là mình không phải là người thích nài ép. Anh ta cũng đủtrí thông minh để tìm cách khơi dậy ở cô sự cảm thông, cho cô tin rằng đàn ông rất cần “cái đó”, nếu không thực sự yêu anh, thì buộc lòng anh phải đi tìm người khác... Cô gái đang được yêu nên biết rằng trước những lời lẽ đó, nếu cô cả nể, chiều theo thì cô sẽ không bảo vệ được tình yêu, bởi vì sau đó cô chẳng có gì để bảo vệ nữa. Có những người đàn ông đứng tuổi, có vợ rồi cũng cố gắng chinh phục cô bằng những lời lẽ mủi lòng rằng, cho tới bây giờ ông ta mới gặp người phụ nữ duy nhất trên đời này hiểu ông, rằng ông vô cùng hạnh phúc vì đã gặp cô, người mà ông suốt đời mong đợi…
Sự hàng phục trước những lời lẽ ngon ngọt đó dĩ nhiên không phải là biểu hiện của tình yêu mà chỉ là bằng chứng của sự ngây thơ, non nớt. Cho nên, còn ai khác ngoài bà mẹphải là người phải giải thích kịp thời cho cô con gái biết những điều đó?
Còn ai khác ngoài ông bố, người thực hiện những hành vi cụ thể của mình trong cư xử với vợ, gián tiếp cho cô con gái biết rằng người đàn bà có quyền yêu cầu ngườiđàn ông mình yêu những gì? Còn ai khác ngoài cha mẹ, những người phải làm cho cậu con trai của mình ý thức được trách nhiệm trước người con gái mình yêu?
Chuyên đề 4:Nấm ăn vừa bổ dưỡng vừa chữa được nhiều bệnh
Không
chỉ là món ăn ngon, các loại nấm còn có tác dụng tăng cường sức đề
kháng cơ thể, chống lão hóa, làm giảm nguy cơ mắc các bệnh như ung thư,
tim mạch...
Nấmăn
là những loại nấm không độc hại, được con người dùng làm thực phẩm. Ở
Trung Quốc, nấm hương đã được biết đến từ thời Xuân thu Chiến quốc. Nấm
được các y thư cổ đánh giá là thứ "ăn được, bồi bổ được, có thể dùng làm
thuốc, toàn thân đều quý giá".Trong giới sinh vật có gần 7 vạn loài nấm, nhưng chỉ có hơn 100 loài có thể ăn hoặc dùng làm thuốc, thông dụng nhất là mộc nhĩ đen, ngân nhĩ, nấm hương, nấm mỡ, nấm rơm, nấm kim châm, nấm trư linh... Ngoài nguồn thu hái từ thiên nhiên, người ta đã trồng được hơn 60 loài theo phương pháp công nghiệp với năng suất cao. Nhiều nhà khoa học cho rằng, nấm sẽ là một trong những thực phẩm rất quan trọng và thông dụng của con người trong tương lai.
Ngoài giá trị cung cấp các chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể, nấm ăn còn có nhiều tác dụng dược lý khá phong phú như:
Tăng cường khả năng miễn dịch của cơ thể:Các polysaccharide trong nấm có khả năng hoạt hóa miễn dịch tế bào, thúc đẩy quá trình sinh trưởng và phát triển của tế bào lympho, kích hoạt tế bào lympho T và lympho B. Nấm linh chi, nấm vân chi, nấm đầu khỉ và mộc nhĩ đen còn có tác dụng nâng cao năng lực hoạt động của đại thực bào.
Kháng ung thư và kháng virus: Trên thực nghiệm, hầu hết các loại nấm ăn đều có khảnăng ức chế sự phát triển của tế bào ung thư. Với nấm hương, nấm linh chi và nấm trư linh, tác dụng này đã được khảo sát và khẳng định trên lâm sàng. Nhiều loại nấm ăn có công năng kích thích cơ thể sản sinh interferon, nhờ đó ức chế được quá trình sinh trưởng và lưu chuyển của virus.
Dự phòng và trị liệu các bệnh tim mạch: Nấm ăn có tác dụng điều tiết công năng tim mạch, làm tăng lưu lượng máu động mạch vành, hạ thấp oxy tiêu thụ và cải thiện tình trạng thiếu máu cơ tim. Các loại nấm như ngân nhĩ (mộc nhĩ trắng), mộc nhĩ đen, nấm đầu khỉ, nấm hương,đông trùng hạ thảo... đều có tác dụng điều chỉnh rối loạn lipid máu, làm hạlượng cholesterol, triglycerid và beta-lipoprotein trong huyết thanh. Ngoài ra, nấm linh chi, nấm mỡ, nấm rơm, nấm kim châm, ngân nhĩ, mộc nhĩ đen còn có tác dụng làm hạ huyết áp.
Giải độc và bảo vệ tế bào gan: Kết quả nghiên cứu cho thấy, nhiều loại nấm ăn có tác dụng giải độc và bảo vệtế bào gan rất tốt. Ví như nấm hương và nấm linh chi có khả năng làm giảm thiểu tác hại đối với tế bào gan của các chất như carbon tetrachlorid, thioacetamide và prednisone, làm tăng hàm lượng glucogen trong gan và hạ thấp men gan. Nấm bạch linh và trư linh có tác dụng lợi niệu, kiện tỳ, an thần, thường được dùng trong những đơn thuốc Đông dược điều trị viêm gan cấp tính.
Kiện tỳ dưỡng vị: Nấm đầu khỉcó khả năng lợi tạng phủ, trợ tiêu hóa, có tác dụng rõ rệt trong trị liệu các chứng bệnh như chán ăn, rối loạn tiêu hóa, viêm loét dạ dày tá tràng. Nấm bình có tác dụng ích khí sát trùng, phòng chống viêm gan, viêm loét dạ dày tá tràng, sỏi mật. Nấm kim châm và nấm kim phúc chứa nhiều arginine, có công dụng phòng chống viêm gan và loét dạ dày.
Hạ đường máu và chống phóng xạ:Khá nhiều loại nấm ăn có tác dụng làm hạ đường máu như ngân nhĩ, đông trùng hạthảo, nấm linh chi... Cơ chế làm giảm đường huyết của đông trùng hạ thảo là kích thích tuyến tụy bài tiết insulin. Ngoài công dụng điều chỉnh đường máu, các polysaccharide B và C trong nấm linh chi còn có tác dụng chống phóng xạ.
Thanh trừ các gốc tự do và chống lão hóa: Gốc tự do là các sản phẩm có hại của quá trình chuyển hóa tế bào. Nhiều loại nấm ăn như nấm linh chi, mộc nhĩ đen, ngân nhĩ... có tác dụng thanh trừ các sản phẩm này, làm giảm chất mỡ trong cơ thể, từ đó có khả năng làm chậm quá trình lão hóa và kéo dài tuổi thọ.
Ngoài ra, nhiều loại nấm ăn còn có tác dụng an thần, trấn tĩnh, rất có lợi cho việc điều chỉnh hoạt động của hệ thần kinh trung ương. Gần đây, nhiều nhà khoa học còn phát hiện thấy một số loại nấm ăn có tác dụng phòng chống AIDS ở mức độnhất định, thông qua khả năng nâng cao năng lực miễn dịch của cơ thể.
Một số loại nấm ăn điển hình
Nấm hương: Còn gọi là nấm đông cô, hương cô, hương tín, hương tẩm..., được mệnh danh là “hoàng hậu thực vật”,là “vua của các loại rau” (can thái chi vương). Trong 100 g nấm hương khô có 12-14 g protein (vượt xa so với nhiều loại rau khác). Nấm hương có tác dụngđiều tiết chuyển hóa, tăng cường năng lực miễn dịch của cơ thể, ức chế tế bào ung thư, hạ huyết áp, giảm cholesterol máu, phòng ngừa sỏi mật và sỏi tiết niệu, trợ giúp tiêu hóa... Đây là thức ăn lý tưởng cho những người bị thiếu máu do thiếu sắt, cao huyết áp, tiểu đường, rối loạn lipid máu, trẻ em suy dinh dưỡng.
Nấm rơm: Còn gọi là bình cô, lan hoa cô, ma cô..., là một trong những loại nấm ăn được sử dụng rất rộng rãi, có giá trị dinh dưỡng khá cao. Nấm rơm là thức ăn rất tốt cho những người bịcao huyết áp, rối loạn lipid máu, vữa xơ động mạch, tiểu đường, ung thư và các bệnh lý mạch vành tim.
Nấm mỡ: Còn gọi là nhục tẩm, bạch ma cô, dương ma cô..., cũng là một trong những loại nấm có giá trị dinh dưỡng cao. Nấm mỡ có tác dụng làm giảm đường và cholesterol máu, phòng chống ung thư và cải thiện chức năng gan. Bởi vậy, đây là loại thực phẩm rất thích hợp cho những người bị ung thư, tiểu đường, tăng cholesterol máu, cao huyết áp, giảm bạch cầu và viêm gan.
Ngân nhĩ: Còn gọi là mộc nhĩtrắng, bạch mộc nhĩ, nấm bạc, bạch nhĩ tử..., cũng là một loại nấm khá giàu chất dinh dưỡng. Ngân nhĩ có tác dụng tăng cường khả năng miễn dịch của cơ thể,nâng cao năng lực tạo máu của tủy xương, cải thiện chức năng của gan và thận, thúcđẩy quá trình tổng hợp protid trong gan, làm giảm cholesterol máu, chống phù và chống phóng xạ. Bởi vậy, ngân nhĩ là thực phẩm rất tốt cho những người bị suy nhược cơ thể, suy nhược thần kinh, bị các bệnh lý đường hô hấp, cao huyết áp, thiểu năng tuần hoàn não...
Mộc nhĩ đen: Còn gọi là vân nhĩ, thụ kê, mộc nhu, mộc khuẩn... Mộc nhĩ đen chứa nhiều protid, chất khoáng và vitamin. Mộc nhĩ đen có khả năng ức chế quá trình ngưng tập tiểu cầu, phòng chống tình trạng đông máu do nghẽn mạch, ngăn cản sự hình thành các mảng vữa xơtrong lòng huyết quản. Ngoài ra, còn có tác dụng chống lão hóa, chống ung thưvà phóng xạ. Bởi vậy, mộc nhĩ đen là thực phẩm lý tưởng cho những người bị cao huyết áp, vữa xơ động mạch, thiểu năng tuần hoàn não, thiểu năng động mạch vành và ung thư.
Chuyên đề 5:BÉO PHÌ NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT
GS. ĐẶNG PHƯƠNG KIỆT
Một
cuộc điều tra trên 1.500 phụ nữ trưởng thành tại 13 xã thuộc hai huyện
Kiến Xương (Thái Bình) và Tiền Giang cho thấy một tỷ lệ béo phì (theo
tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế thế giới) là 0,52% (Kiến Xương) và 6,75%
(Cai Lậy).Trong 6 tháng đầu năm 1999, Trung tâm khám chữa bệnh và tư vấn sức khỏe Ngọc Khánh đã phát hiện hàng trăm trường hợp béo phì và những bệnh liên quan như đái tháođường, tăng huyết áp (ở nữ nhiều hơn nam), trẻ em béo phì cũng không hiếm.
Tác giả bài này muốn chia xẻ cùng bạn đọc những hiểu biết mới nhất về chứng béo phì, là một vấn đề đáng được quan tâm trong chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
? Thừa cân nặng chưa hẳn là béo phì
Thử dẫn chứng một số ví dụ (4 vị thành niên này đều là nữ):
1. L.T.N.Y 9 tuổi (Bái Thượng, Thọ Xuân, Thanh Hóa); nặng 42,5kg; cao 1,38m.
2. N.M.H 12 tuổi (Bãi Cháy, Hạ Long); nặng 67kg; cao 1,43m.
3. T.Đ.D.A 13 tuổi (216 phố Bạch Mai, Hà Nội); nặng 68kg; cao 1,47m.
4. A.T 16 tuổi (Tân Mai, Hòa Bình); nặng 61kg; cao 1,53m.
Theo công bốmới đây của Viện Nhi khoa thì cân nặng trung bình của các trẻ em gái 9 tuổi là 23,9kg, 12 tuổi là 34kg, 13 tuổi là 37kg và 16 tuổi là 44kg. Nếu dựa vào những trị số này, ở cả 4 trường hợp nói trên, các trị số cân nặng đều thừa (vượt quá trị số trung bình) từ 70% đến 100% (gần gấp đôi bình thường) và nhìn vào ngoại hình đều có thể được xem là béo phì.
Thế nhưng, theo các nhà dinh dưỡng học thừa cân nặng (overweight)không luôn luôn đồng nghĩa với béo phì (obesity). Muốn kết luận là béo phì phải dựa chỉsố khối thân thể (BMI là viết tắt của cụm từ tiếng Anh: Body Mass Index).
BMI được tính theo công thức
Áp dụng công thức này cho 4 trường hợp nói trên thì các trị số BMI lần lượt sẽ là: (1) 22kg/m2; (2) 32kg/m2; (3) 31kg/m2 và (4) 27kg/m2.
Cũng theo các nhà dinh dưỡng, chỉ số BMI có ý nghĩa nói lên những nguy cơ cho sức khỏe của những người thừa cân nặng, đúng hơn: của người béo phì, cụ thể là:
BMI = 20-25kg/m2 được xem là có một cân nặng ưu việt với đa số, ở đây là trường hợp (1). (22 kg/m2)
BMI = 27kg/m2 trở đi gọi là thừa cân nặng ở đây rơi vào trường hợp (4). (27kg/m2)
BMI = 30kg/m2 trở đi được xếp là béo phì thực sự ở đây là trường hợp (2) (32kg/m2) và trường hợp (3). (31kg/m2)
? Béo phì có những biến chứng gì?
Tỷ lệ tử vong cao có liên quan đến béo phì trước hết do gia tăng các nguy cơ bệnh tim mạch, cao huyết áp, đái tháo đường và có thể một vài typ ung thư nữa.
- Hệ tim mạch: Ngoài việc làm tăng gánh nặng cho tim, béo phì có thể còn có trách nhiệm trong các trường hợp chết bất ngờ (đột tử) vì loạn nhịp tim, và tăng nguy cơ bệnh xơ vữa động mạch liên quan đến tăng nồng độchất béo trong máu là chất liùpoprotein cholesterol tỷ trọng thấp.
- Đái tháo đường: Bệnh đái tháo đường typ 2 (không phụ thuộc insulin) trên nguyên tắc không bao giờ hiện diện ở những người có chỉ số BMI dưới 22kg/m2. Người ta nhận thấy nguy cơ gia tăng bệnh đái tháo đường ở người béo phì phụ thuộc nhiều vào yếu tố gia đình. Một công trình nghiên cứu cho thấy nếu một hoặc cả hai bố mẹ mắc bệnh đái tháo đường thì gần 100% số con cái sẽ mắc bệnh này nếu có chứng béo phì; còn nếu cả hai bốmẹ đều không mắc thì nguy cơ nói trên chỉ có 20% mà thôi.
- Ung thư: Tỷ lệ mắc ung thư nội mạc tử cung và ung thư vú ở phụ nữ mãn kinh, tỷ lệ ung thư tuyến tiền liệt ở nam giới và tỷ lệung thư ruột kết - ruột thẳng ở cả nam lẫn nữ thấy có liên quan đến mức độ béo phì. Người ta cho rằng sở dĩ phụ nữ béo phì dễ mắc ung thư nội mạc tử cung và ung thư vú là vì lý do tăng sản xuất chất nội tiết estrogen trong các mô tế bào mỡ.
- Bệnh sỏi mật: Bệnh sỏi mật gia tăngở người béo phì (và gia tăng theo tuổi) có lẽ liên quan đến mức gia tăng bài xuất chất cholesterol của mật. Lượng cholesterol được cơ thể tổng hợp mỗi ngày gia tăng chừng 20mg với mỗi kg mô tế bào mỡ, thành thử một khối gia tăng 10kg tế bào mô mỡ sẽ làm tăng sản xuất và bài tiết một lượng cholesterol tương đương một lòng đỏ trứng gà và đó là lý do sẽ tạo thành các sỏi mật chứa cholesterol ở người béo phì.
- Rối loạn chức năng phổi: Béo phì mức độ vừa và không có bệnh phổi thì ít có ảnh hưởng đến chức năng hô hấp. Thế nhưng, cơn ngừng thở lúc ngủ lại có thể xảy ra với những người béo phì nặng và đây là một vấn đề nghiêm trọng cần được đặt ra. Người ta cho rằng ngừng thở tắc nghẽn lúc ngủ là do lượng mỡ tích tụ quá nhiều tại vùng khí phếquản. Những đợt ngừng thở do tắc nghẽn này xảy ra liên tiếp trong giấc ngủ sẽdẫn tới biến cố giảm oxy máu và tăng thán khí (CO2) trong máu, có thể gây tử vong.
- Rối loạn nội tiết: Đáng kể là nồng độtestosterone trong máu giảm ở đàn ông béo phì và có ảnh hưởng thực sự đến sinh hoạt tình dục. Còn ở nữ giới béo phì thì thường có kinh sớm, kinh không đều, có những chu kỳ kinh không phóng noãn (không có khả năng thụthai) và mãn kinh sớm. Những phụ nữ béo phì mà các khối mỡ tập trung trong các nội tạng thì sản xuất ra nhiều nội tiết tố nam (testosterol), còn mỡ tập trung nhiều ở mông và đùi thì sản xuất ra nhiều chất nội tiết tố nữ (estrogen).
Chúc các bạn luôn vui-khỏe...NDD
No comments:
Post a Comment